Hồi Tưởng

     Xin riêng tặng các bạn đã học chung với tôi ở trung tâm giáo dục Nguyễn Hiền tại Đà Nẵng, cũng như các bạn đã học chung với tôi ở trường Phan Châu Trinh, và trường Hoàng văn Thụ (Phan Thanh Gian cũ), để trả lời câu hỏi Phạm Đỗ Minh Quốc đã làm gì và ở đâu sau năm 1975.

    “Khi ngồi tưởng tiếc một kỷ niệm nào đó, luôn luôn tôi nhớ đến những ngôi trường cũ. Ở đấy có nhiều hoa, nhiều bướm, nhiều nụ cười, nhiều tình thương mà ta chỉ được hưởng một khoảng thời gian để xao xuyến cả đời……….Nơi đó, không có ông thầy nào dạy học trò lừa lọc, không có người bạn nào phản bội mình cả. Nơi đó, tội lỗi chỉ là sự vụng dại dám trêu thầy chọc bạn.” Kỷ niệm thời đi học, kỷ niệm thời thơ ấu, là những kỷ niệm tuyệt vời. Những ngày vừa qua, tôi may mắn liên lạc được với những người bạn học cũ của thời thơ ấu, thời còn cắp sách đến trường đã làm tôi vô cùng xao xuyến. Những kỷ niệm thời còn đi học. Những kỷ niệm về những ngôi trường cũ. Những kỷ niệm về bạn bè. Những kỷ niệm về thành phố Đà Nẵng hiền hòa, thân thương. Tất cả tưởng đã quên đi, nay từ đâu bỗng kéo về.

     Tôi sinh ra ở Nha Trang, nhưng lại lớn lên ở Đà Nẵng. Trong trái tim tôi lúc nào cũng có một ngăn thầm kín dành cho Đà Nẵng. Thât khó diễn tả hết tâm tình của tôi dành cho Đà Nẵng. Có thể nói Đà Nẵng là mốI tình đầu của tôi. Cũng đúng thôi. Ở đó, tôi đã có những môí tình thơ mộng, lãng mạn, và thật là trong sáng của tuổI học trò. Tôi vẫn còn nhớ Nguyễn Thị Thanh Vân của năm lớp 9, khi tôi học ở trưòng Phan Thanh Giản. Lúc đó là đầu niên học của lớp 9, tôi và Vân đã có “chiến tranh lạnh” ngay từ đầu niên học. Vào tiết học toán, cô giáo cho làm toán “chạy”. Có nghĩa là ai xong và đem lên nộp trước sẽ thắng. Vân đã đem lên nộp trước, còn tôi là ngườI thứ hai. Vân lúc đi xuống, nhìn tôi kênh kiệu. Còn tôi thì lầm bầm: “Để rồI coi.” Sau đó đến giờ Pháp văn, cô giáo Pháp văn lạI cho thi đua. Tôi mừng thầm. Hà hà, cơ hộI tớI rồi. Tôi đã từng được coi là vua “chemise” Pháp văn lúc còn ở trường Nguyễn Hiền mà. Phen này, nhà ngươi chết chắc. Đúng như vậy. Tôi đã đem lên nộp trước, còn Thanh Vân là ngườI thứ hai. Thanh Vân nhìn tôi hậm hực nhưng trong ánh mắt tôi thấy có đôi chút vẻ nể nang. Còn tôi thì khoái chí và hả dạ. Cứ như thế tôi và Vân tiếp tục “chiến tranh lạnh” vớI nhau. Không ai nói vớI ai một lờI nào. Chỉ nói vơí nhau bằng những ánh mắt và nụ cườI thỏa mãn khi đi ngang qua chỗ ngồI của nhau. Cho đến một hôm, không biết bạn nào chơi ác, dấu cặp táp của tôi. Lúc đó sắp đến giờ học, tôi hớt hơ hớt hảI đi kiếm. Lúc đó Thanh Vân xuất hiện và hỏI:

“Quốc kiếm gì vậy?”

“Kiếm cặp táp. Không biết ai dấu nữa?”

     Đó là lần đầu tiên tôi và Thanh Vân nói chuyện. Sau đó chúng tôi bắt đâù quen nhau từ đó. Tôi còn nhớ đêm cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng, Nguyễn thị Thanh Vân có đến chia tay với tôi. Những ngườI bạn năm lớp 9 của tôi, không chỉ có Thanh Vân,còn có Ngô viết Hiến, Hứa Dân Cường.

     Tôi và Hứa Dân Cường quen nhau, cũng đẹp và thật là dễ thương. Giờ đây, nghĩ lạI, tôi thấy thật là con nít và ngộ nghĩnh. Hôm đó tôi bị chị tôi la, vì một lý do gì đó tôi không nhớ rõ. Tôi bực mình, bỏ ra khỏI nhà, đi bộ cho khuây khỏa. Đang lang thang trên đường Lê LợI, vừa qua khỏI trường Phan Thanh Giản, gần tớI đường Nguyễn Hoàng, tôi thấy Hưá Dân Cường đạp xe ngang qua. Cường không nhìn thấy tôi. Tôi kêu: “Cường, Cường.”

     Cường đạp xe chậm lạI và ngoáy lạI nhìn tôi. Liền sau đó, tôi đuổI theo chiếc xe đạp, và nhảy phóc lên ngồI ở yên sau. Thế là Cường chở tôi đi lang thang khắp Đà Nẵng. Lúc đó, tôi đang buồn bực, và không có chủ định đi đâu, nên cứ đi lang thang vớI Cường. Cường rủ tôi ra biển chơi. Hai đứa đạp xe ra bến phà ở sông Bạch Đằng. Qua phà. RồI đạp xe ra biển Mỹ Khê. Tôi không nhớ lúc này vào khoảng tháng mấy mà biển rất là vắng. Tôi còn nhớ, ngày đó biển động. Sóng rất lớn. Có lẽ vì vậy mà biển vắng chăng? Chỉ có hai đưá chúng tôi. Chúng tôi xăn quần lên nhảy sóng. Sau một hồI đùa giỡn vô tư với sóng biển, chúng tôi đạp xe về. Trên đường về, Cường vẫn đạp xe, còn tôi thì ngồI sau. Cường lúc đó to con và khỏe mạnh hơn tôi. Có lẽ vì vậy Cường cứ dành chở tôi. Vì mệt nên hai đứa cũng ít nói chuyện hơn lúc đi. Bỗng nhiên Cường hỏI tôi:

“Mi biết hút thuốc không?”

“Ummmm………biết chớ!”

     Cường tấp vào một hàng quán nào đó và mua 2 điếu thuốc lá, 2 ly trà đá. Chúng tôi ngồI nghỉ chân ở đó, uống trà đá và hút thuốc lá. Tôi không còn nhớ là thuốc gì. Đó là lần đâù tiên tôi hút thuốc. Cũng từ ngày đó, tôi và Cường trở thành bạn thân.

     Nói về Đà Nẵng, tôi có thề nói hoài, nói mãi. Nơi đó tôi đã từng có một gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Tôi vẫn còn nhớ. Nhớ rất nhiều về căn nhà ở Đà Nẵng nơi tôi đã sống thờI thơ ấu. Nhà tôi ở trong cư xá Thống Nhất, gần cư xá Đoàn Kết, trên đường Trưng Nữ Vương. Tôi vẫn còn nhớ, nhà tôi có một cái giếng, nơi tôi thích nhất mỗI khi trờI mưa. Đà Nẵng, mỗI lần trờI mưa, mưa rất nhiều. Những lúc đó giếng nước trong vắt, và nước giếng dâng cao đến thành giếng. Những lúc đó, tôi chỉ cần cầm gàu múc tắm. Không cần phảI thòng dây xuống sâu. Tôi vẫn thích tắm ở đây hơn là vào phòng tắm vì mát mẻ và tắm bằng nước giếng chứ không phảI bằng nước máy. Tôi vẫn còn nhớ căn phòng của tôi, gồm có hai giường hai bên, ở giữa là tủ sách, khi mở tủ ra sẽ trở thành một cái bàn. Tôi đã ngồI học và làm bài trên cái bàn này. Bên phảI phòng của tôi là phòng của ba mẹ tôi. Tôi vẫn còn nhớ, mỗI sáng thức giấc, hay mỗI tốI, trước khi chìm vào giấc ngủ, tiếng nhạc từ chiếc maý Akai trong phòng ba tôi vọng sang. Nhũng bài nhạc cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Như bài: “Kỷ vật cho em”, “NgườI anh hùng mũ đỏ tên Đương.” Bên trái phòng của tôi là phòng tắm. Trước mặt phòng của tôi là sân chơi có mái che, và có bàn bóng bàn. Căn nhà này là nơi tôi đã trảI qua thờI thơ ấu. Căn nhà này đã không còn nữa kể từ năm 1975.

     Đà Nẵng, nơi đó tôi có những ngườI bạn thật dễ thương. Nơi đó có những ngôi trường cũ mà tôi đã theo học. Như trường Phan Châu Trinh, trường Phan Thanh Giản và trường Nguyễn Hiền mà tên gọi đầy đủ là trung tâm giáo dục Nguyễn Hiền. Trung tâm giáo dục Nguyễn Hiền là ngôi trường đầu tiên tôi đi học, và cũng là ngôi trường tôi theo học nhiều năm nhất. Từ mẫu giáo cho đến lớp năm. Tôi còn nhớ mang máng hình như cổng chính của trường Nguyễn Hiền nằm trên đường Độc Lập. Nếu đứng từ đường Độc Lập nhìn vào trường Nguyễn Hiền thì hông bên trái của trường là đường Quang Trung. Còn hông bên phải là đường gì tôi không còn nhớ !? Còn phía sau lưng của trường? Hình như phía sau lưng của trường là trường Lycée Blaise Pascal. Tôi còn nhớ, nếu đi từ cổng ở hông bên phải vào thì sẽ gặp sân đá banh và trường Pascal và quẹo trái sẽ vào trường Nguyễn Hiền. Trường Nguyễn Hiền, so với những trường tôi đã học ở Đà Nẵng, trường Nguyễn Hiền thật sự đẹp và rộng rãi hơn những ngôi trường khác mà tôi đã học, như trường Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản. Tôi còn nhớ, mỗi người được ngồi một bàn nhỏ riêng. Bàn và ghế dính liền với nhau, dưới bàn có một cái học nhỏ. Trường có rất nhiều cây và sân chơi rộng rãi. Đôi khi trường tổ chức những buổi cắm trại tại trường. Học sinh đem lều vào ngủ tại trường. Tôi rất thích những lần cắm trại như thế này vì tha hồ được nói chuyện và chơi với bạn. Trường Nguyễn Hiền lúc đầu giáo viên toàn là người Pháp, chúng tôi học bằng tiếng Pháp. Sau đó, tôi không nhớ vào khoảng lớp mấy thì đổi sang chương trình Việt. Giáo viên là người Việt. Dạy bằng tiếng Việt. Giáo viên người Pháp, chỉ dạy tiếng Pháp. Các lớp học nằm song song với đường Độc Lập, và nhìn ra hướng đường Độc Lập. Phía bên phải của các lớp học, tức là gần phía bên đường Quang Trung, có sân vũ cầu, bàn bóng bàn, và sân bóng rỗ. Bàn bóng bàn nằm giữa sân bóng rỗ và sân vũ cầu. Tôi rất thích thể thao nên nơi đây là nơi tôi lê la nhiều nhất. Giờ ra chơi, tôi thường hay đến đây đánh bóng bàn với Hà văn Tấn và Vũ anh, Vũ em.

     Tôi còn nhớ được tên của một số bạn hồi đó học chung với tôi ở trường Nguyễn Hiền như Đinh Anh Tuệ, Trương như Giai, Võ văn Tài, Trần Thọ Thành, Phạm Thị Quỳnh Anh, Tôn Nữ Thanh Thiên, Hà văn Tấn, Trần Phước An, Huỳnh Thái Hòa, Nguyễn Thanh Đức, Trương Đình Nhân, Trần Kim Địa, Võ Thị Nhân Đức, Lê thị Ái Nhơn, Nguyễn Xuân Diễn. Đó là những cái tên mà tôi còn nhớ được, tất nhiên mặt mũi thì chỉ mường tượng một cách rất mơ hồ. Nguyễn Xuân Diễn, nếu tôi nhớ không lầm, hồi nhỏ lúc nào đi học cũng ăn mặc rất tươm tất, gọn gàng. Trần Kim Địa thì tôi chỉ nhớ được tên mà không hình dung ra được khuôn mặt như thế nào lúc nhỏ. Hà văn Tấn thì tôi nhớ hồi nhỏ rất có duyên và vui vẻ, trên mặt có má lúm đồng tiền mỗi khi cười. Tôi nhớ Tấn nhiều vì Tấn đánh bóng bàn rất hay, và tôi thì lại rất ham mê các môn thể thao. Hồi đó tôi đánh bóng bàn và vũ cầu cũng rất có hạng. Ở trường Nguyễn Hiền, ngoài Tấn anh và Tấn em đánh bóng bàn còn có Vũ anh và Vũ em, nhà ở Pharmacy Chợ Cồn. Hai anh em Vũ anh và Vũ em đầu tóc lúc nào cũng hớt rất cao. Vũ cầu, tôi nhớ có Thắng, không nhớ họ là gì, tên ở nhà còn gọi là cu Miền. Ngoài ra, tôi nhớ trong một lần tranh giải vũ cầu ở trường Nguyễn Hiền, tôi đã đấu với một anh lớp lớn hơn tôi, tên là Ba. Võ thị Nhân Đức, không biết có học chung với tôi năm lớp 9 ở trường Phan Thanh Giản không, nhưng tôi nhớ rất rõ Nhân Đức. Người nước da bánh mật, da thịt rắn chắc, khỏe mạnh. Trương Đình Nhân, tôi nhớ, nhưng không hình dung ra được Nhân hồi nhỏ thế nào. Nhân sau này chuyển qua trường Phan Châu Trinh cùng với tôi và Đinh Anh Tuệ. Đinh Anh Tuệ tôi nhớ rất rõ. Gia đình Tuệ, gia đình tôi và gia đình Nhân có quen biết với nhau và có qua lại. Nhưng tôi nhớ Tuệ nhiều hơn vì sau này qua Phan Châu Trinh học chung chương trình Pháp văn, còn Nhân đổi sang chương trình Anh văn. Nguyễn thanh Đức học chung với tôi năm lớp 9 ở trường Hoàng văn Thụ cho nên tôi vẫn còn nhớ Thanh Đức. Nhưng Thanh Đức cũng rất đặc biệt, khó quên, vì Đức có nút ruồi ở đâu đó trên mặt, nên còn được gọi là Đức ruồi. Thanh Đức rất tếu. Huỳnh Thái Hòa, hồi nhỏ người mập mạp nên còn được gọi là Hòa mập. Không biết bây giờ còn mập không? Trần Phước An, bị sứt môi, nên còn được gọi là An sứt, tôi vẫn còn hình dung ra được khuôn mặt. Trương Như Giai tôi cũng nhớ rất rõ. Người cao và trắng như con gái. Hay bị chọc vì cái tên dai nhách của mình. Thật sự tên là Giai nhưng vẫn bị đổi thành dai. Trần Thọ Thành, Võ văn Tài, Tôn nữ Thanh Thiên, Phạm Thị Quỳnh Anh thì tôi nhớ rất rõ vì hồi nhỏ tôi thích chơi với những bạn này. Phạm Thị Quỳnh Anh sau này có qua Hoàng văn Thụ và học chung với tôi năm lớp 9 nhưng lúc này tôi không còn chơi thân với Quỳnh Anh nữa. Quỳnh Anh người nhỏ con, nói tiếng Huế rất nhẹ nhàng. Trần Thọ Thành thì mặt mày trắng trẻo, khôi ngô. Võ văn Tài, hồi nhỏ khuôn mặt tròn, hai má hơi phinh phính, để tóc dài. Tôn nữ Thanh Thiên, hồi nhỏ nói năng rất nhẹ nhàng, từ tốn, dễ thương. Rất hay mặc áo đầm? Hình như là vậy? Hồi nhỏ tôi rất thích chơi với Thanh Thiên, có lẽ vì hạp tánh và ít khi gây lộn. Tôi còn nhớ một kỷ niệm khó quên với Võ văn Tài. Chính vì tôi thích chơi với Thanh Thiên cho nên Tài đã chọc và cặp đôi tôi với Thanh Thiên. Thế là tôi nộ khí xung thiên lên, mặc dầu trong bụng thì rất khoái chí. Lúc đó tôi rượt Tài chạy và dùng cái dũa móng tay nhỏ xíu đánh Tài trầy tay chảy máu. Kết quả là cô giáo, tôi không còn nhớ cô tên gì, đã bắt tôi quỳ gối trước lớp thật lâu. Không biết Võ văn Tài bây giờ ở đâu? Không biết Tài còn nhớ chuyện đó không?

     Tôi học Nguyễn Hiền cho đến hết năm lớp 5. Niên khóa 1972-1973, năm lớp 6, tôi đổi sang học ở trường Phan Châu Trinh và học ở đó cho đến năm lớp 8. Cùng sang trường Phan Châu Trinh với tôi có Đinh Anh Tuệ, Trương Đình Nhân. Năm 1975, tôi đang học lớp 8/1 ở trường Phan Châu Trinh thì một biến cố lớn xảy ra. Ngày 29 tháng 3, Đà Nẵng rơi vào tay giặc cướp. Trường Phan Châu Trinh sau đó được dành cho cấp 3 mà thôi. Niên khóa 1975-1976, tôi bị đẩy sang học lớp 9 ở Hoàng văn Thụ tức Phan Thanh Giản cũ, học chung với bạn cũ Nguyễn Thanh Đức, Phạm Thị Quỳnh Anh, Lê thị Ái Nhơn. Những người bạn mới của tôi năm lớp 9 là Hứa Dân Cường, Ngô viết Hiến, Nguyễn thị Thanh Vân và Nguyễn thị Hạnh (Hạnh bún bà Đào).

     Một năm sau đó. Năm 1976, là một năm đầy biến cố đau thương cho tôi. Cha tôi mất trong “trại cảI tạo”. Tôi thi rớt kỳ thi chuyển cấp lớp 9 lên lớp 10. Mẹ tôi quyết định bán nhà, rờI thành phố Đà Nẵng vào Sài Gòn sinh sống. Tôi phải đau đớn, xót xa, rời bỏ thành phố Đà Nẵng, nơi tôi đã có thật nhiều kỷ niệm. Tôi còn nhớ, tôi là người cuối cùng bước lên xe, sau khi đã nhận lãnh một cái tát từ mẹ tôi. Mẹ tôi đã thật sự lo lắng khi thấy xe đò chuẩn bị lăn bánh. Tất cả gia đình tôi đều có mặt đầy đủ, ngoạI trừ tôi. Tôi đã cố tình níu kéo và tận hưởng những giây phút cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng thân yêu. Tôi đã lang thang rong chơi với bạn bè và là người sau cùng xuất hiện lúc xe chuẩn bị lăn bánh. Ngồi trên xe, tôi đã khóc rấm rứt không phải vì cái tát của mẹ tôi. Tôi khóc, vì tôi phải xa Đà Nẵng, thành phố nơi tôi đã lớn lên và có qúa nhiều kỷ niệm. Không biết bao giờ tôi có thể quay trở lại. Tôi khóc, vì tôi phải xa bạn bè, xa trường lớp. Tôi khóc, vì tôi không biết ngày mai rồi sẽ ra sao? Nơi tôi sắp đến như thế nào?

     Chấm dứt tuổi ấu thơ. Chấm dứt thời thơ mộng. Chấm dứt hoa và bướm. Chấm dứt những nụ cười tuổi học trò. Tôi bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi xa lạ, thành phố Sài Gòn. Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông, đã không làm tôi quên được Đà Nẵng. Năm đầu tiên ở Sài Gòn, tôi như người thất tình. Tôi nhớ Đà Nẵng. Nhớ da diết. Nhớ quay quắt. Đầu óc lúc nào cũng nghĩ về Đà Nẵng. Cọng thêm. Không tiền bạc. Không bạn bè. Không trường lớp. Không nghề ngỗng. Không cha. Không quen biết ai. Thành phố thì xa lạ. Không biết đường xá. Không biết đi đâu. Không biết làm gì. Tinh thần tôi sa sút vô cùng. Cho đến một hôm, tôi gặp lại được một người bạn cũ, học chung lớp 8/1 với tôi ở trường Phan Châu Trinh, tên Nguyễn ngọc Hùng. Tôi mừng quá thế là cứ bám riết anh ta. Nhà Hùng lại ở gần nhà tôi. Quận 3. Gần chợ Tân Định. Thế là ngày nào tôi cũng có mặt ở nhà Hùng. Hình như Hùng lúc đó cũng chẳng có việc gì làm và cũng chẳng đi học. Và cũng mồ côi cha giống tôi. Thế cho nên hai đứa gặp nhau mỗi ngày. Tôi thích chơi bóng rổ mà không biết chơi ở đâu. Hùng chở tôi lên sân Phan Đình Phùng đánh bóng rổ. Hùng chở tôi lên hồ bơi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi bắt đầu làm quen với Sài Gòn. Hùng chở tôi đi lang thang khắp nơi, khắp Sài Gòn, trên chiếc xe đạp cọc cạch. Có khi tôi chở. Có khi Hùng chở. Chúng tôi thay phiên đèo nhau. Những lúc lên dốc thì tôi ngồi phía sau, choàng hai tay ra đàng trước, phụ với Hùng, bằng cách đè hai tay của mình xuống đùi Hùng để thêm sức. Chúng tôi cứ lang thang như thế cho đến một ngày. Chúng tôi thi đậu vào trường công nhân kỹ thuật Thủ Đức. Cuối cùng, chúng tôi cũng chấm dứt cuộc sống vô vị. Chúng tôi học nội trú ở Thủ Đức hai năm. Nếu tôi nhớ không lầm, thời gian này, vào khoảng năm 1977,1978. Thời gian này tôi lại biết thêm môn thể thao mới. Đá banh. Năm 1979, tôi ra trường. Nói ra trường cho oai. Muốn vào trường này chỉ cần học hết lớp 9 và phải qua khỏi kỳ thi tuyển sinh. Tôi học về gạch ngói. Năm 1979, tôi làm ở xí nghiêp gạch ngói Đức Tân ở Bình Lợi. Về phần Hùng, tôi không nhớ học về ngành gì và làm ở đâu. Làm được khoảng một năm, thì chiến trường sôi động. Đảng cần bộ đội. Tôi nghe phong phanh có tên trong danh sách sẽ lên đường ra chiến trường. Tôi không dạI gì cống hiến xương máu cho bọn cướp. Vì chúng đã cướp đi căn nhà của tôi, cướp đi ngưòi cha của tôi!!! Tôi bỏ việc. Biến mất. Tất nhiên, tôi không thể về nhà. Vì về nhà là bị “chộp”. Một lần nữa tôi quay trở lại cuộc sống vô định! Rày đây, mai đó! Một con số không to tướng! Một lần nữa tôi lại lang thang khắp nẻo đường Sài Gòn. Một mình !! Lần này không có Hùng. Hùng đã tham gia cách mạng !!(sic). Trong những ngày tháng lang thang đó, tôi có đi tìm Hùng và được biết Hùng đã nhập ngũ và đang ở Cam Bốt. Năm đó tôi vừa tròn 18 tuổi.

     Những năm kế tiếp sau đó là những năm khốn khổ và chịu đựng. Tôi đã làm đủ mọi nghề để nuôi sống bản thân. Làm phu khuân vác. Tôi đã là phu “bốc xếp” ở bãi than Bình Triệu. Đạp “ba gác”. Đi dạy kèm toán tại tư gia cho các học sinh cấp 2. Đúng. Tôi chỉ mới học hết lớp 9. Túng thì phải làm liều. Dạy lớp 8 hoặc lớp 7 thì dễ. Còn lớp 9 thì hơi hóc búa. Tôi phải mua sách ôn lại. Ôn tới đâu. Dạy tới đó. Nghề sau cùng của tôi trước khi tôi rời Sài Gòn là làm thợ chụp hình ở sở thú. Trong những năm tháng lang thang vô định đó, tôi cũng đã năm lần, bảy lượt, vào tù ra khám, vì tộI “phản quốc”. Tôi đã “nằm nghỉ mát” tạI trại Cây Gừa ở Cà Mau, trại Vũng Tàu. Tôi đã nhiều lần cố tìm đường thoát ra khỏi cõi ngục tù, thoát ra khỏi kiếp nô lệ, thoát ra khỏi cái “thiên đường” quái gỡ, nhưng không thành công.

     Đầu năm 1988, tôi quay trở về Nha Trang, tìm đường vượt biên sau nhiều lần thất bại ở những nơi khác. Vào khoảng tháng ba hoặc tháng tư năm 1988, tôi khăn gói quả mướp lên tàu tại Nha Trang. Lần chia tay này, tôi không cảm thấy thương tâm hay đau đớn như lần tôi phải chia tay với Đà Nẵng. Ngược lại, tôi còn cảm thấy nhẹ nhỏm, như mình vừa dứt bỏ được một cái gì xấu xa ghê gớm mà mình phải chịu đựng bấy lâu nay. Chỉ cho đến khi mà con tàu đã rời thật xa, đất liền chỉ còn thấy mờ mờ, và tôi biết chắc rằng tôi sẽ không bị bắt lại, tôi mới cảm thấy bổi hổi bồi hồi. Một cảm giác buồn ngập tràn tâm hồn tôi.

     Sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, tàu đến đảo Talampulan của Phi Luật Tân. Tôi còn nhớ group của tôi được gọi là group 153 Talampulan. Có nghĩa là tàu của tôi gồm có 153 người và đã đến đảo Talampulan. Thật sự tàu của tôi gồm có 154 người. Một người đã chết. Xác đã quăng xuống biển. Sau một năm chờ ở “quán trọ trước cổng thiên đường”, tôi lên đường đi Mỹ.

    Tháng 5 năm 1989 tôi đặt chân lên đất Mỹ. Năm đó tôi 28 tuổi. Bắt đầu một cuộc sống mới ở Mỹ với một mớ kiến thức ngổn ngang, với một trình độ học vấn lớp 9. Tất nhiên là có khó khăn. Nhưng không đáng kể so với những gì tôi đã trải qua. Công việc đầu tiên kiếm ra tiền của tôi là nghề bồi bàn. Nhiều người nhìn tôi ái ngại. Nhưng không sao. Mình làm ăn lương thiện mà. Làm bồi bàn được vài tháng thì tôi quyết định đi học lại. Tôi ghi danh học tại Santa Ana college vào tháng 9 năm 1989, bốn tháng sau khi tôi đến Mỹ. Tôi đã dồn hết tâm sức vào công việc học hành. Sau nhiều năm mài quần ở trường Santa Ana college tôi được nhận vào học ở UCI (University of California, Irvine). Mùa hè năm 1992, tức vài tháng trước khi nhập học UCI tôi lập gia đình. Đám cưới tôi, chỉ có hai người bạn xưa cũ ở Đà Nẵng là Ngô viết Hiến và Nguyễn văn Dũng. Ngô viết Hiến học chung với tôi năm lớp 9 ở trường Phan Thanh Giản. Nguyễn văn Dũng không có học chung với tôi nhưng ở gần nhà tôi ở Đà Nẵng. Tất cả còn lại là bạn học mà tôi quen khi học ở Santa Ana college. Sau một tuần trăng mật tại Hawaii tôi lại đi học tiếp ở UCI. Mùa hè năm 1995, tôi học xong chương trình đại học, chuyên khoa điện toán. Cũng trong năm này. Tháng 8, 1995, con trai đầu lòng của tôi ra đời. Trong niềm ao ước đất nước Việt Nam chúng ta có được một minh quân, tôi đã đặt tên cho con tôi là Phạm Minh Quân. Sau đó thì tôi vác cuốc đi cày như mọi người. Năm 2001, đứa con thứ hai, Phạm Minh Mẫn, ra đời.

     Cũng trong năm 2001, tôi đã gặp lại Nguyễn thanh Đức, tức Đức ruồi. Rồi cũng từ Nguyễn Thanh Đức, tôi bắt được liên lạc với những người bạn cũ của tôi hồi còn học Nguyễn Hiền. Rồi email. Rồi gọi phone. Rồi nhắc nhớ kỷ niệm xưa, thầy bạn cũ. Làm tôi cứ bổi hổi bồi hồi đứng ngồi không yên. Bạn tôi nay ở bốn phương, tám hướng. Đinh Anh Tuệ ở Texas. Trương Đình Nhân ở Oklahoma. Hà văn Tấn ở Canada. Tôn Nữ Thanh Thiên ở Washington. Lê Thị Ái Nhơn và Huỳnh Thái Hòa, nghe nói vẫn còn ở Đà Nẵng, Việt Nam. Còn Trần Thọ Thành ở đâu? Tôi đã hỏI nhiều người. Không ai biết? Trần Thọ Thành đã mất tích trên đường vượt biển. Chính mẹ của Trần Thọ Thành đã nói cho tôi biết sau này.

    Sau năm 1975, chúng tôi như bầy chim vỡ tổ. Kẻ ở Canada. Người ở Mỹ. Kẻ ở Đức. NgườI ở Bỉ. Trước đây, tôi luôn có thắc mắc, tại sao đi đâu cũng gặp người Tàu. Người Tàu hầu như có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Lúc trước, tôi cứ cho rằng vì dân số Tàu đông. Nhưng bây giờ tôi đã hiểu. Bây giờ, người Việt Nam cũng như người Tàu, có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta là một ấn bản của Tàu. Chúng ta cần thoát khỏi bóng ma Tàu. Trở lại chuyện những người bạn của tôi. Tất cả gặp nhau ở trường Nguyễn Hiền. Sau đó mỗi người mỗi ngã. Kẻ Đông. Người Tây. Chúng tôi ví như những chiếc lá trôi trên một dòng sông. Có chiếc thì tấp vào chỗ này. Có chiếc thì tấp vào chỗ kia. Có chiếc gặp đúng giòng nước, thuận buồm xuôi gió trôi thẳng một lèo ra biển cả bao la. Có chiếc thì trôi lòng vòng, lẩn quẩn, cuối cùng rồi cũng trôi ra biển cả, gặp những chiếc lá kia. Cũng có chiếc bị bảo tố phong ba vùi dập, chìm xuống đáy, chẳng bao giờ tìm thấy nữa. Những chiếc lá trôi được ra biển cả, tiếp tục trôi lềnh bềnh trên biển cả bao la. Cuối cùng, những chiếc lá đó sẽ trôi về đâu?

“Cõi trần kẻ trước người sau

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.”

     Hơn ba mươi năm sau. Gặp lại những người bạn cùng trường, cùng lớp, khi còn học tiểu học. Lúc đó trong đám học trò còn quá con nít đó. Có ai biết ngày sau mình sẽ làm gì và ở đâu không? Gặp lại bạn xưa. Vui, buồn lẫn lộn. Ngồi suy tư. Nghĩ về trường xưa. Nhớ về bạn cũ. Viết lách lăng nhăng. Nhìn lại, tất cả đã ngoài bốn mươi tuổi, chao ôi!

“Time goes, you say? Ah no!

Alas, Time stays, we go.”

Orange County, California

10/08/2004

Phạm Đỗ Minh Quốc

    PS: Lúc tôi viết những dòng hồI tưởng này, tôi chưa biết được tin tức của Võ văn Tài, Võ thị Nhân Đức, Lê thị Ái Nhơn và Phạm Thị Quỳnh Anh. Lúc viết vừa xong thì tôi được biết Ái Nhơn đang ở Canada chứ không phảI ỏ Việt Nam. Võ thị Nhân Đức nghe nói cũng đang ở Canada. Tôi vẫn chưa liên lạc được hai ngườI này. Còn Quỳnh Anh và Tài tôi đã liên lạc được. Tài còn nhớ chuyện tôi và Tài đánh lộn. Mà nguyên nhân cũng chỉ vì Thanh Thiên! “TrờI” xanh, sao gây chi lắm chuyện oái ăm!?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *